Bộ Tam Lương Thực và Cá của Người Do Thái

 

    The Last Supper, Unknown Artist

Bữa ăn của người Do Thái trong thế kỷ thứ nhất Công Nguyên bao gồm bộ tam lương thực: bánh mì, rượu, và dầu ôliu. Với hệ thống sông ngòi đa dạng và Biển hồ Galilê rộng lớn, cá hầu như cũng luôn hiện diện trong mỗi bữa ăn của người Do Thái thuộc vùng Galilê.        

I. Bánh mì

Bánh mì là thực phẩm chính yếu trong bữa ăn của người Do Thái. Thật sự ra cả hai, lúa mì và lúa mạch, đều lọt vào “danh sách lương thực ưu tuyển” của người Do Thái.[1] Theo như Đệ Nhị Luật 8:8, lương thực ưu tuyển gồm có: lúa mì, lúa mạch, trái nho, cây vả, trái lựu, cây ôliu và mật ong.[2]

Các nhà khảo cổ phát hiện gần bờ biển Galilê và thành phố Giêricô cổ xưa những loại hạt của cây lúa mì và lúa mạch đã cácbon hóa có niên đại nhiều thiên niên kỷ về trước.[3] Khám phá này xác định giả thuyết cho rằng những người sống trong vùng Đất Hứa đã từng trồng lúa mì và lúa mạch từ những ngày đầu của thiên niên kỷ thứ hai TCN. Các nhà khoa học cũng khám phá ra cây lúa mì emmer có nguồn gốc từ Palestin là “mẹ của các cây lúa mì.”[4] Và từ cây lúa mì emmer Palestin, “nhiều loại lúa mì trồng trên thế giới đã nảy sinh.”[5] So với lúa mì, lúa mạch có ít hàm lượng gluten, một loại đạm thiết yếu giúp bột dậy men nhanh chóng. Bởi thế, một chiếc bánh mì lúa mạch “có bề mặt thô cứng, khó nhai và khó tiêu hóa.”[6]

Thật thế, lúa mạch chỉ có giá trị phân nửa so với lúa mì trong thời người Samari bị vua Benhadad xứ Aram vây hãm.[7] Bởi vậy, lúa mạch được xem như không có chất lượng bằng lúa mì. Loại bánh mì được mọi người chọn để dùng cũng xác định được địa vị của một người trong xã hội. Trong khi bánh mì được làm từ lúa mì dành cho giới thượng lưu, bánh mì làm từ lúa mạch dành cho giới nông dân và người nô lệ trong xã hội. “Chỉ những danh gia vọng tộc giàu có và thế lực nhất mới dùng loại bánh mì trắng được chế biến từ loại bột lúa mì thượng hạng nhất.”[8] Khi nạn đói hoành hành trong vùng, ổ bánh mì làm bằng lúa mạch “là lương thực cuối cùng [một người] có thể sở hữu.”[9] Nói một cách khác, khi hũ bột đựng lúa mạch xay trong nhà trở nên trống rỗng, nạn đói chắc chắn đang trên đường đi tới gõ cửa từng căn nhà trong vùng.[10]

Phụ nữ Do Thái trong thế kỷ thứ nhất CN là người chuẩn bị bữa ăn cho gia đình. Người vợ do đó phải thức dậy sớm để xay lúa thành bột. Thông thường trong khoảng một tiếng đồng hồ, “chỉ có khoảng chừng 800 gram bột được xay nhuyễn.”[11] Do đó, “phải mất khoảng cỡ ba tiếng đồng hồ cô mới xay đủ lượng bột để làm bánh mì nuôi sống một gia đình có năm đến sáu thành viên.”[12] Sau đó, bột sẽ hòa lẫn với nước, nhào nặn rồi thêm vào với chút men. Quá trình chế biến bánh mì vào thời Đức Giêsu là một công việc khá mất thời giờ. Nhưng may mắn thay, việc nướng bánh mì chỉ mất vài phút. Trong kinh “Lạy Cha,” câu “Xin cho chúng con bánh mì hằng ngày” là “lời cầu nguyện rõ ràng không chỉ để cầu xin cho mùa màng thuận lợi…, mà còn khẩn khoản nài xin khả năng chịu đựng cần thiết để nướng bánh mì.”[13]

Trong bữa ăn, một mẩu bánh mì được thưởng thức bằng cách “nhúng vào dầu ôliu, gia vị và rau thơm.”[14] Người Do Thái dùng bữa bằng tay. Do đó, bánh mì cũng được sử dụng như “một phương tiện để vét đậu và ngũ cốc đồng thời cũng để thấm nước sốt và nước thịt.”[15]

“Bánh mì là lương thực cơ bản của văn hóa ẩm thực [Do Thái],”[16] do đó, Đức Giêsu và các môn đệ ăn bánh mì hằng ngày và trong mỗi bữa. “Bánh mì được xem là một phần thiết yếu trong đời sống.”[17] Bánh mì là “cốt lõi trong bữa ăn [của người Do Thái] vào thế kỷ thứ nhất.”[18] Trong tâm thức của người Do Thái, “khi bánh mì không còn nữa, mọi thứ khác cũng sẽ đều biến mất.”[19]

 

II. Dầu Ôliu

Ôliu, được mô tả trong sách Đệ Nhị Luật 8:8, là một trong bảy loại thảo mộc của vùng Đất Hứa. Khoa học gia gần đây phát hiện ra một giống cây ôliu dại mọc ở Palestin tên gọi Olea Europaea.[20] Loại cây này được xem như “loại thảo mộc ôliu đầu tiên được canh tác trên thế giới.”[21] Các nhà khảo cổ cũng phát hiện ra nhiều hầm ôliu, có niên đại khoảng 4300-3300 TCN, tại những thành phố được nhắc tên trong Kinh Thánh: Megíđô, Gezer, Lakis và Bêit Shan.[22]

Cũng bởi điều kiện khí hậu rất thuận lợi với ôliu, ôliu là một loại cây phổ biến tại vùng Địa Trung Hải nói chung và Palestin nói riêng. Điều này giải thích lý do tại sao dầu ôliu được liệt vào một trong bộ tam lương thực của người vùng Địa Trung Hải. Trái ôliu muối hay lên men tự nhiên được dùng trong bữa ăn hằng ngày. Riêng dầu ôliu hiện diện trong bữa ăn Do Thái như “một thứ nước chấm cho bánh mì, rau củ và các loại thịt.”[23] Trái ôliu chín cũng được sử dụng sau khi đã ngâm với nước muối và phơi khô để khử bớt vị đắng.[24]

Ngoài bữa ăn, dầu ôliu cũng có thể được dùng làm thảo dược và làm dầu để sắc phong vương như Thánh Kinh đã tường thuật.[25] Xuất phát từ hình ảnh chim bồ câu bay trở về tàu Nôê với nhành lá cây ôliu non trong Sáng Thế ký 8:11, lá ôliu trở nên biểu tượng mang ý nghĩa của hòa bình và hòa giải.

 

III. Rượu Nho

Vùng Địa Trung Hải và Palestin “tận hưởng tất cả những lợi thế của vùng đất có khí hậu thuận lợi cho việc trồng nho.”[26] Vì lý do đó, rượu nho xuất hiện trong bộ tam lương thực của người vùng Địa Trung Hải. Cây nho Địa Trung Hải trồng ở Palestin có thể đã xuất phát từ vùng Aménia.[27] Các nhà khảo cổ đã khám phá ra hằng trăm máy ép nho làm rượu ở Palestin. Điều này chỉ ra rằng nông nghiệp trồng nho ở vùng đất này “đã xuất hiện ít ra vào khoảng thiên niên kỷ thứ ba TCN.”[28]

Người Ai Cập thích rượu nho được sản xuất từ vùng đất Canaan. Do đó, khi Ai Cập cai trị Canaan vào năm 1500-1200 TCN, rượu hảo hạng nhất của vùng đất này được tuyển chọn, vận chuyển mang về Ai Cập để phục vụ các vua Pharaôn và hoàng gia.[29] Người Átsyria và Babylon đánh giá “Palestin…là một quốc gia có khả năng cung cấp rượu nho, đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ rượu của hoàng gia và giới quý tộc.”[30]

Người Do Thái thời Đức Giêsu uống rượu nho “trộn với các loại thảo mộc, hương liệu, nước trái cây và nhiều hương vị khác.”[31] Nhìn chung, người Do Thái dùng rượu pha với nước nhằm tránh tình trạng quá chén.[32] Hầu hết loại rượu nho người Do Thái dùng trong bữa ăn hằng ngày có thể là rượu đỏ, bởi rất nhiều đoạn văn trong Thánh Kinh liên kết hình ảnh mầu máu với rượu nho.[33] Thí dụ, trong Bữa Tiệc Vượt Qua, Đức Giêsu nâng chén rượu và nói: “Đây là máu Ta” (Mt 26:27-28).[34] Trước khi thưởng thức ly rượu nho, người đứng đầu gia đình sẽ đọc lời kinh tạ ơn: “Lạy Chúa là Chúa Cả trời đất, chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con rượu này, là sản phẩm từ cây nho.”[35]

Tương tự như dầu ôliu, rượu nho cũng được sử dụng như dược phẩm với đặc tính trị bệnh. Trên con đường lữ hành, theo như thánh sử Luca, người Samaritanô nhân hậu gặp người đàn ông Do Thái bị thương nằm bên vệ đường. Ông ta đã đến gần, băng bó vết thương cho nạn nhân, sau đó đổ dầu ôliu và rượu nho lên vết thương của người đàn ông (Lc 10:25-37).[36]

 

IV. Cá

Cá được nhắc đến trong hầu hết các bản văn Thánh Kinh đều có nguồn gốc từ vùng biển Địa Trung Hải, vùng biển Galilê, lưu vực sông Nin và sông Giócđan.

Sau khi dân Do Thái chinh phục được Đất Hứa, con cháu của hai chi tộc Zêbulun và Náptali được thừa hưởng hai vùng đất thuận lợi với ngư nghiệp. Trong khi vùng đất Zêbulun, gần với vùng đất sát ngay bên biển Địa Trung Hải, vùng đất Náptali kế ngay bên Biển Hồ Galilê. Nhiều thần thoại cổ xưa cũng gán các hoạt động cùng với kỹ thuật đánh bắt cá tới hai nhân vật Zêbulun và Náptali của Cựu Ước.[37] Nhiều đoạn Thánh Kinh cũng đề cập đến Cửa Cá của thành phố Giêrusalem (Nơkhemia 13:16, 3:3, 12:39, 13:16; và Xôphônia 1:10).[38] Ngoài ra, Ácrê, một hải cảng tọa lạc phía tây bắc Palestin trong thế kỷ thứ hai CN, đã trở thành địa điểm nổi tiếng chuyên buôn bán các loại cá cũng như hoạt động đánh bắt cá. Do đó, để diễn tả một nhiệm vụ mà không cần đến nhiều nỗ lực, các thầy Rabi thường hay nói: “Chuyện đó dễ dàng y như việc mang cá đến cửa cảng Ácrê.”[39]

Cá dường như không xuất hiện như một món ăn quan trọng đối với người Do Thái cổ. Hiện tượng này có thể liên quan đến công đoạn khó khăn trong việc giữ cho cá tươi trong suốt quá trình vận chuyển.[40] Tuy vậy, điều này không xảy ra với cư dân sống ven Biển Hồ Galilê. Thật vậy, theo như các tường thuật trong cả bốn bản Tin Mừng, Đức Giêsu và các môn đệ ăn cá nhiều hơn thịt. Bánh mì và cá thường xuất hiện cùng với nhau trong các sách Tin Mừng như một cặp đôi thực phẩm trọng yếu trong các bữa ăn. Trong Bài Giảng Trên Núi (Mt 5), tới đoạn đề cập đến “ba khía cạnh của sự kiên nhẫn: ‘hỏi han, tìm kiếm và gõ cửa’,”[41] Đức Giêsu hỏi các người môn đệ: “Có người cha nào, khi đứa con xin… một con cá, lại đưa cho nó con rắn?” (Mt 7:9-10).[42] Hơn nữa, những khi Đức Giêsu và các môn đệ quây quần cho một bữa ăn, ngoài bánh mì, cá cũng là một trong hai món thường xuyên xuất hiện. Cá được phân phát cho đám đông dân chúng trong Tin Mừng Hóa Bánh Mì Gioan 6. Trong chương cuối cùng, tác giả của Tin Mừng Gioan thuật lại, sau khi nướng bánh mì, những chú cá tươi mới bắt được từ Biển Hồ cũng được đích thân Đức Giêsu nướng trên than hồng cho một bữa ăn sáng.

Tuy nhiên, để di chuyển trong một hành trình dài, cá phải được ướp với muối hay phơi khô. Thị trấn Mácđala, nơi xuất thân của bà Maria Mácđala, là một thị trấn cá, bởi thị trấn này nổi tiếng với các công đoạn chế biến cá. Phố Mácđala còn có một tên khác trong tiếng Hy Lạp: Taricheae, nghĩa là “bảo quản” trong ngôn ngữ Hy Lạp.[43]

Người La Mã thường ướp muối những loại cá nhỏ như: “cá thu hay cá cơm.”[44] Từ hỗn hợp cá và muối này, người La Mã làm ra nước mắm “gọi là garum trong tiếng La Tinh.”[45] Garum thực sự trở nên phổ biến đến nỗi nó trở thành một chủ đề được tranh luận giữa các nhà triết gia nổi tiếng. Trong khi triết gia Pliny ca ngợi hương vị của nước mắm thì Plato phản ứng lại với mùi của garum và gọi đó là “đồ xú uế.”[46] Loại nước mắm garum của người La Mã được du nhập vào Palestin bởi người Syria, Phônicia và người Hy Lạp. Người Do Thái sử dụng garum như là một loại “nước sốt dùng với cá và trứng, cũng như nấu chung với thịt trong bữa ăn.”[47]

              Trích Lm Nguyễn Trung Tây, Âm Hưởng Truyền Giáo trong Văn Hóa Việt Nam của Tin Mừng Hóa Bánh Mì Ra Nhiều trong Gioan 6” (NXB: Tôn Giáo, 2021).



        [1] Miriam Feinberg Vamosh, Food at the Time of the Bible: From Adam’s Apple to the Last Supper (Herzlia: Palphot, 2007), 37.

[2] Ibid.

[3] Ibid., 22.

[4] Ibid.

[5] Ibid.

[6] Ibid., 23.

[7] Ibid.

[8] Doughlas E. Neel and Joel A. Pugh, The Food and Feasts of Jesus: The Original Mediterranean Diet, with Menus and Recipes (Lanham, Maryland: Rowman and Littlefield, 2012), 39.

[9] Vamosh, Food at the Time of the Bible, 22.

[10] Ibid., 27.

[11] Ibid., 26.

[12] Ibid., 27.

[13] Ibid.

[14] Ibid., 35.

[15] Ibid., 38.

[16] Neel and Pugh, The Food and Feasts of Jesus, 30.

[17] Ibid., 37.

[18] Ibid.

[19] Ibid.

[20] Xem Vamosh, Food at the Time of the Bible, 37.

[21] Ibid.

[22] Ibid.

[23] Neel and Pugh, The Food and Feasts of Jesus, 68.

[24] Xem Vamosh, Food at the Time of the Bible, 39.

[25] Xem Neel and Pugh, The Food and Feasts of Jesus, 68.

[26] Ibid., 31.

[27] Ibid.

[28] Ibid., 32.

[29] Ibid., 31.

[30] Nathan MacDonald, What Did The Ancient Israelites Eat? Diet in Biblical Times (Grand Rapids: Wm. B. Eerdmans Publishing, 2008), 23.

[31] Neel and Pugh, The Food and Feasts of Jesus, 68.

[32] Xem Herman Mueller, “Holy Eucharist Center of Our Life according to Lk 22:7-38,” DIWA 20 (May 1995): 45; Neel and Pugh, The Food and Feasts of Jesus, 129-130.

[33] Xem Vamosh, Food at the Time of the Bible, 32-33.

[34] Ibid., 32.

[35] Neel and Pugh, The Food and Feasts of Jesus, 131.

[36] Xem Vamosh, Food at the Time of the Bible, 33.

[37] Ibid., 57.

[38] Ibid.

[39] Ibid.

[40] Ibid.

[41] Luma A. Khudher, “The Sermon and Authentic Piety,” Bible Today 55, no. 1 (January/February 2017): 25.

[42] Ibid.

[43] Vamosh, Food at the Time of the Bible, 58.

[44] Vu Hong Lien, Rice and Baguette: A History of Food in Vietnam (London: Reaktion Books, 2016), 87.

[45] Neel and Pugh, The Food and Feasts of Jesus, 25, 219-220; Vu Hong Lien, Baguette and Rice, 87-91.

[46] Vu Hong Lien, Rice and Baguett, 88.

[47] Vamosh, Food at the Time of the Bible, 60.

Comments