Chuyện Tu Sĩ Chuyện Em: Tại Sao Đức Giêsu Bị Giết?
Em
hỏi tu sĩ,
–
Cha, sao người Do Thái lại giết chết Chúa vậy?
Tu
sĩ gãi đầu gãi mái tóc bạc trắng,
–
Wow! Mi hỏi một câu dễ trả lời quá hà.
Tiện
tay, tu sĩ sửa lưng em,
–
À, không phải là người Do Thái giết chết Chúa đâu nhá. Con phải nói cho nó chính
xác. Mấy nhà lãnh đạo người Do Thái đề nghị án tử hình lên Tổng trấn Philatô.
Và quan Philatô chuẩn y bản án.
Em
quê độ, làm mặt lơ lơ, nhưng nhanh chóng quay lại đề tài cũ,
–
Ok, ok cha. Không phải người Do Thái giết Chúa Giêsu. Nhưng tại sao các nhà
lãnh đạo Do Thái lại đề nghị án tử giết Chúa Giêsu vậy?
Suy Niệm
Cuộc
khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là những sự kiện nền tảng,
mang ý nghĩa sâu sắc về thần học, lịch sử và xã hội. Tuy nhiên, một câu hỏi thường
được đặt ra, đâu là nguyên nhân đã dẫn đến cái chết của Đức Giêsu?
Theo
như Marcus Borg và John Crossan, The Last Week, Chúa Giêsu bị kết án tử không chỉ vì lý do tôn
giáo mà còn vì những chỉ trích mạnh mẽ giai cấp lãnh đạo trong Đền Thờ, những kẻ
chuyên nghiệp trong việc áp bức và bóc lột người nghèo. Nhiều thần học gia khác
nhấn mạnh rằng, lời rao giảng về Nước Trời và tuyên bố Ngài là Con Thiên Chúa,
đã khiến các nhà lãnh đạo La Mã và Do Thái coi Người là một mối đe dọa tới nền
an ninh của Đế chế La Mã đương thời và tôn giáo Do Thái.
Sứ Vụ của Đức Giêsu
Đức
Giêsu đến trần gian để loan báo Tin Mừng về Nước Trời. Điều này bao gồm những
nét căn bản sau đây:
–
Thiên Chúa là cội nguồn của Tình Yêu. Ngài yêu thương thế gian vô điều kiện. Bởi
thế Ngài gửi Người Con xuống trần gian, không phải để luận phạt, nhưng để cứu độ
thế giới (Jn 3:16, 17).
–
Trong hơn ba năm sứ vụ, qua giáo lý và hành động, Đức Giêsu trình bày một cách
cụ thể nét đặc thù của Thiên Chúa: Ngài là Thiên Chúa của người nghèo (Lk
4:16-20). Bởi thế Đức Giêsu luôn luôn đứng về phía người nghèo, người bị gạt ra
bên lề xã hội, người mất tiếng nói. Đồng thời Ngài cũng lên án những hành vi giả
hình của giới lãnh đạo tôn giáo, những người thường xuyên bóc lột và đàn áp người
nghèo trong xã hội.
–
Đức Giêsu thách thức cung cách thờ phượng Thiên Chúa qua phương tiện vật chất
mang nét giả hình, hoặc lợi dụng danh thánh cho những lợi ích kinh tế. Bởi thế,
khi tiến vào Đền Thờ, Ngài đánh đổ bàn đổi tiền (Mc 11:15-18), một hành động mạnh
mẽ phản đối việc biến nơi thờ phượng thành trung tâm kinh tế bóc lột.
–
Giáo lý của Ngài nhấn mạnh đến cốt lõi của phục vụ và tình yêu. Bởi thế, Ngài đảo
lộn quan niệm về quyền lực khi tuyên bố: “Ai
muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20:26).
Và chính Ngài thực hiện điều này ngay trong bữa Tiệc Ly.
Những
điều cốt lõi vừa tóm gọn ở trên đã đặt Đức Giêsu vào thế đối đầu với hai nhóm
quyền lực trong xã hội thời đó, các nhà lãnh đạo Do Thái và chính quyền bảo hộ
La Mã. Các nhà thượng tế và lãnh đạo Do Thái cảm thấy bị đe dọa bởi giáo lý của
Đức Giêsu. Về phía chính quyền La Mã, họ e ngại Đức Giêsu có khả năng kích động
một cuộc nổi dậy.
Khi
hiểu những điều cốt lõi này, độc giả Kinh Thnh sẽ nhận ra cuộc khổ nạn của Ngài
không phải là một sự kiện ngẫu nhiên, mà là hệ quả tất yếu của việc sống với và
liên tục rao giảng Sự Thật.
Trình Tự Tuần Thương Khó
Nếu
Đức Giêsu chọn lựa chỉ sinh hoạt với sứ vụ rao giảng Tin Mừng ở Galilê và vùng
phụ cận, Ngài sẽ không đối diện với án tử, bởi Galilê là vùng đất của Ngài. Giới
lãnh đạo của Galilê, cả La Mã và Do Thái đều quen biết Ngài, nhờ Ngài can thiệp
khi cần. Thí dụ, viên sĩ quan La Mã đến gặp Ngài để cầu xin Đức Giêsu chữa bệnh
cho người đầy tớ (Lk 7:1-10, Mt 8:5-13), hay viên thủ lãnh Hội Đường Do Thái
Jairus cũng đến gặp Đức Giêsu xin Ngài chữa bệnh cho cô con gái (Mk 5:21-24,
35-43, Lk 8:40-42, 49-56).
Người
Do Thái ở Galilê rất nhiệt tình ủng hộ Đức Giêsu. Sau khi Ngài làm phép lạ hóa
5 ổ bánh mì và 2 con cá ra nhiều nuôi sống đám đông 5 ngàn người đàn ông, chưa
tính phụ nữ và trẻ em, đám đông khi đó muốn tôn phong Đức Giêsu làm vua (Jn
6:1-15; Mt 14:13-21, Mk 6:30-44, Lk 9:10-17). Bởi ảnh hưởng của Đức Giêsu, giới
lãnh đạo Do Thái ở Galilê cũng như từ kinh thành Giêrusalem nhiều lần đi theo
Ngài tìm cách hãm hại Ngài (Mk 3:6, Jn 7:1, Jn 11:53). Nhưng điều này bất khả
thi bởi cả hai, giới lãnh đạo và dân chúng Galilê đều ủng hộ Đức Giêsu.
Nhưng
nếu Đức Giêsu rời bỏ khu vực Galilê, đi xuống kinh thành Giêrusalem, Ngài sẽ phải
đối đầu với giới lãnh đạo Do Thái, bởi giáo lý và cách hành xử của Đức Giêsu đối
với bộ luật Do Thái (Mt 23:1-36, Mk 7:1-13, Lk 11:37-54, Jn 8:31-59). Và đúng
như vậy, sau khi Đức Giêsu đi vào kinh thành Giêrusalem ngày Chúa Nhật, chỉ
trong vòng 6 ngày ngắn ngủi, sau những sinh hoạt sứ vụ tại đây, Ngài vác thập
giá lên đồi Golgotha.
–
Chúa Nhật Lễ Lá: Đức Giêsu tiến
vào Giêrusalem trong sự hoan hô của dân chúng (Mt 21:1-11, Mk 11:1-11, Lk
19:28-40, Jn 12:12-19).
–
Thứ Hai tới Thứ Tư: Ngài tiếp tục
giảng dạy và vạch trần bất công trong Đền Thờ (Mt 21:12-17, Mk 11:15-19, Lk
19:45-48).
–
Thứ Năm Tuần Thánh: Ngài tổ chức
Bữa Tiệc Ly với các môn đệ (Mt 26:17-30, Mk 14:12-26, Lk 22:7-38, Jn 13:1-30).
–
Đêm Thứ Năm: Bị Giuđa phản bội, Đức
Giêsu bị bắt tại Vườn Cây Dầu và đưa ra xét xử (Mt 26:47-56, Mk 14:43-50, Lk
22:47-53, Jn 18:1-11).
–
Sáng Thứ Sáu: Quan Philatô kết
án tử hình Đức Giêsu dưới áp lực của giới lãnh đạo Do Thái (Mt 27:11-26, Mk
15:1-15, Lk 23:1-25, Jn 18:28-40).
–
Trưa Thứ Sáu: Đức Giêsu chịu thọ
hình, bị đóng đinh (Mt 27:32-44, Mk 15:21-32, Lk 23:26-43, Jn 19:17-27).
–
3 giờ chiều Thứ Sáu: Ngài trút
hơi thở trên thập giá (Mt 27:45-50, Mk 15:33-37, Lk 23:44-46; Jn 19:28-30).
Dưới
góc độ tôn giáo, xã hội, lịch sử, án tử của Chúa Giêsu có thể được xem là kết
quả của ba lý do chính yếu.
(1).
Lý do Tôn giáo: Ngài bị coi là kẻ
phạm thượng vì tuyên bố là Con Thiên Chúa (Mt 26:63-65, Mk 14:61-64, Lk
22:66-71, Jn 10:30-33).
(2).
Lý do Chính trị: Ngài bị cáo buộc
muốn xưng vương, đe dọa chính sách bảo hộ của đế chế La Mã trên vùng đất Do Thái
(Lk 23:1-5, Jn 19:12-15).
(3).
Lý do Xã hội: Ngài đứng về phía
những người bị áp bức. Điều này gây mất lòng giới thượng lưu. Đức Giêsu trở nên
cái gai trong con mắt của giới lãnh đạo (Lk 4:18-30, Mt 9:10-13, Mk 2:15-17).
Và
thế là Đức Giêsu vác thánh giá, bị đóng đinh, và nhắm mắt chết đi vào lúc 3 giờ
chiều.
Nhưng
thật là bất ngờ! Cái chết của Ngài vào buổi chiều ngày thứ Sáu hôm đó không phải
là dấu chấm hết, nhưng lại là một khởi đầu (Mt 28:1-10, Mk 16:1-8, Lk 24:1-12, Jn
20:1-18).
Ý Nghĩa Phục Sinh
Câu
tuyên bố nổi tiếng của Đức Giêsu: “Sự
thật sẽ giải thoát anh em” (Jn 8:32) không chỉ mang ý nghĩa thiêng liêng
trong nhiều lãnh vực, mà còn thể hiện rõ ràng Sứ Vụ của Ngài. Đó là, giới thiệu
Sự Thật của và về Thiên Chúa đến trần gian, dù phải đối diện với cái chết.
Khi Thiên Chúa phục sinh Đức Giêsu từ trong cõi chết, Ngài xác nhận giáo lý giảng dạy của Đức Giêsu là Sự Thật. Và Sự Thật đã giải thoát Đức Giêsu trong ngôi mộ đá khỏi Thần Chết. Bắt đầu từ Đức Giêsu, tuần tự thường nhật của trần gian, Sinh, Bệnh, Lão, Tử từ những ngày đầu tiên của nhân loại hoàn toàn thay đổi. Khi Đức Giêsu phục sinh từ trong cõi chết, tuần tự cuộc sống thay vì bốn nét, giờ này cộng thêm một: Sinh, Bệnh, Lão, Tử, và Phục Sinh.
Bởi
thế, ý nghĩa quan trọng nhất của biến cố phục sinh có liên quan đến ước mơ về một
đời sống vĩnh hằng của con người. Phân tích dưới lăng kính thần học, phục sinh
của Đức Giêsu là phục sinh cấu thành
(constitutive resurrection). Nói một cách khác, phục sinh của Đức Giêsu là một
biến cố đã mở ra một kỷ nguyên mới cho nhân loại. Bởi Đức Giêsu đã sống lại từ
trong cõi chết, sự chết không còn quyền năng trên Ngài nữa. Bởi phục sinh cấu thành của Đức Giêsu, bất cứ
ai có niềm tin vào Đức Giêsu, người đó cũng sẽ được sống lại như Ngài.
Trong
lá thư thứ nhất gửi công đoàn Côrintô, Phaolô đã đề cập đến nét phục sinh cấu thành này. Đối với Phaolô,
biến cố phục sinh của Đức Giêsu là hoa trái đầu tiên hứa hẹn nhiều hoa trái
khác xuất hiện trên cây Phục sinh. Vì vậy, Phaolô đã viết, “Nhưng thật ra, Đấng
Christ đã từ kẻ chết sống lại, hoa trái đầu mùa của những kẻ đã chết” (1Cor
15:20). Do đó, những ai tin vào Đức Giêsu Kitô và sự phục sinh của Ngài cũng sẽ
được sống lại vào ngày sau hết.
Khởi
đầu từ biến cố Phục Sinh đầu tiên, nhân loại không còn phải đối mặt với cụm từ
nhị phân, “một thời để sinh ra và một thời để chết,” nhưng, “một thời để sinh
ra và một thời để phục sinh.” Tin vui này là tin vui nhất cho tất cả những người
tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Vì tin vào Đức Giêsu Kitô, dù đã chết, chôn trong
mồ, người Kitô hữu cũng sẽ được sống lại như Ngài vào ngày sau hết.
Do
đó, khi hát vang, “Alleluia, Ngài đã sống lại,” thật sự ra tín hữu Kitô cũng
đang hát vang cho một kỷ nguyên mới của chính họ, “Alleluia! Chúng ta sẽ được
phục sinh vào ngày sau hết.”□
Comments
Post a Comment