Phụ Nữ Việt Nam: Người Bảo Trợ Sinh Thái Học
Tóm Lược: Phụ nữ Việt Nam là người bảo trợ Sinh Thái Học trong xã hội Việt Nam. Ảnh hưởng bởi tôn giáo truyền thống Đạo Thờ Trời, công khó của phụ nữ Việt Nam, và triết lý cần kiệm, phụ nữ Việt Nam thực hành và dạy dỗ con cái tôn trọng thức ăn bởi đó là món quà Ông Trời ban tặng. Khi xã hội chuyển mình sang thời kinh tế thị trường và hậu hiện đại, phụ nữ Việt Nam vẫn là người bảo trợ của Sinh Thái Học với châm ngôn sống, “Nấu vừa đủ, ăn vừa no!”
Lịch sử Việt Nam thời huyền sử khởi đầu với những trang sách về một người phụ nữ, tổ mẫu Âu Cơ, người phụ nữ đầu tiên của dòng lịch sử Việt mang 50 con đi lên núi. Dẫn tới đầu thế kỷ Công nguyên, hai nhân vật khởi đầu chương sử độc lập của Việt Nam là hai người phụ nữ, chị em Trưng Trắc Trưng Nhị. Trong văn thơ, Bà Huyện Thanh Quan nổi tiếng với những bài thơ Song Thất Lục Bát. Cạnh đó, văn chương Việt Nam cũng có Chinh Phụ Ngâm, tác phẩm đã được văn sĩ Đoàn thị Điểm dịch sang chữ Nôm. Ngoài những đóng góp vào lịch sử và văn chương, phụ nữ Việt Nam cũng có một vai trò nổi bật trong đời sống gia đình. Vai trò này được gói gọn trong một danh hiệu: nội tướng. Thật vậy, những sinh hoạt trong khuôn viên một gia đình truyền thống đều được dự tính, lên danh sách, để rồi được mang ra thực hành đều dưới sự điều khiển và kiểm soát bởi phụ nữ Việt. Vai trò nội tướng trong gia đình cũng dẫn đến một vai trò khác của phụ nữ Việt Nam, đó là, người bảo trợ Sinh Thái của xã hội. Thật vậy, trong gia đình truyền thống Việt Nam, bởi vai trò nội tướng điều khiển chi thu trong gia thất, người vợ chính là người thực hành đời sống sinh thái. Thức ăn trước và sau một bữa ăn hằng ngày đều được sử dụng bởi người phụ nữ Việt hoặc dưới sự chỉ đạo của họ. Trong tâm thức của phụ nữ Việt, không ai được quyền phung phí, dù chỉ là một hạt gạo, bởi hạt gạo chính là hạt ngọc do Trời ban tặng.
Trong bài tham khảo về vai trò Người Bảo Trợ Sinh Thái của phụ nữ Việt
Nam, tác giả trước tiên sẽ định nghĩa về cụm từ Sinh Thái Học; thứ hai, nguồn gốc
của đời sống Sinh Thái tại Việt Nam; thứ ba, phương cách phụ nữ Việt Nam của
gia đình truyền thống tiếp cận Sinh Thái trong đời sống hằng ngày. Sau cùng, tác
giả sẽ phân tích về sự thay đổi của môi trường sống trong thời kỳ hậu hiện đại.
Bởi bối cảnh thay đổi, vai trò của người bảo trợ Sinh Thái Học cũng đã và đang thay
đổi theo dòng trào lưu của xã hội Việt.
A. Sinh Thái Học
Bắt đầu từ giữa
thế kỷ hai mươi, giữa những thách đố gây ra bởi hiện tượng biến đổi khí hậu, Sinh
Thái Học, một môn học mới đã xuất hiện nhằm nâng cao ý thức của nhân loại về nét
linh thiêng của tất cả mọi tạo vật. Cốt lõi của Sinh Thái Học là môi trường sống
trên quả địa cầu và tất cả những sinh vật, thực vật, và những vật thể còn lại. Sinh
Thái Học do đó cũng nhấn mạnh đến mối liên hệ và những tương tác song phương giữa
con người với Mẹ Đất.[1] “Sinh Thái Học…chú trọng…đến
những mối tương quan” giữa những tất cả những vật thể trên trái đất.[2] Sinh Thái Học thúc đẩy con
người phải xem xét lại cách thức mỗi cá nhân nhìn nhận và đối xử với những tạo vật
khác, đồng hiện hữu và cùng sinh sống trên mặt trái đất.[3] Dưới lăng kiếng của Sinh
Thái Học, từ con ong, cái kiến cho tới bụi cỏ, rừng cây và đồi xanh, núi cao
trong thiên nhiên, những vật thể này đều có đời sống và/hoặc những vai trò đóng
góp để quân bằng đời sống tự nhiên trên mặt trái đất.
“Sinh Thái Học
là một môn khoa học mới.”[4] Tuy vậy, điểm cốt lõi của Sinh
Thái Học thật ra đã được thực hành bởi con người từ thuở ban sơ. Những điểm cốt
lõi này vẫn còn được con người “ở những cộng đồng văn hóa truyền thống” tiếp tục
sống với và thực hành cho đến thời điểm hiện tại.[5] Việt Nam là một trong những
xã hội truyền thống. Ở nơi đó, cốt lõi của Sinh Thái Học đã được thực hành từ
những ngày đầu tiên của xã hội Việt Nam.
Trong xã hội
Việt Nam, phụ nữ Việt chính là một tác nhân đã và đang hướng dẫn cũng như dạy dỗ
con cái về Sinh Thái Học. Cũng chính người mẹ Việt trong gia đình là người thường
xuyên nhắc nhở con cái phải thực hành hằng ngày một trong những cốt lõi của Sinh
Thái Học . Đó là bảo quản và tái chế thức ăn dư thừa sau mỗi bữa cơm.
B. Nguồn gốc của Sinh Thái Học ở Việt Nam
Khía cạnh bảo
quản và tái chế thức ăn của Sinh Thái Học ở xã hội Việt Nam là hoa quả của ba
lãnh vực: Việt giáo, công khó của phụ nữ Việt, và triết lý cần kiệm.
1. Việt giáo: Hạt Gạo, Hạt Ngọc của Trời
Một trong những
đặc tính của Ông Trời là dưỡng nuôi. Cổ tích “Ông Trời và Hạt Gạo Ngọc” xác nhận
niềm tin rằng, hạt gạo được đích thân Ông Trời ban tặng cho con người như một
món quà quý giá.[6] Dựa
theo cổ tích này, hạt gạo trong nền văn hóa Việt Nam không chỉ đơn thuần là một
món quà Ông Trời ban tặng, nhưng còn là hạt ngọc quý. Bởi thế, người Việt thường
hay nói: “Hạt gạo, hạt ngọc của Trời,”
“Không được phí phạm dù chỉ là một hạt
gạo,” và “Đó là tội nếu đạp lên
một hạt gạo.” Những câu nói này lưu truyền từ lâu trong dân gian được
các bà mẹ Việt thường xuyên dạy dỗ và nhắc nhở con cái của mình trong những bữa
ăn hằng ngày. Hơn thế nữa, hạt gạo cũng được xem như “hoa trái từ đất, sự chúc
lành từ trời, và công khó của con người.”[7]
Bởi hạt gạo
là hạt ngọc của Ông Trời, hoa trái của đất và công khó của người, không ai được
quyền xúc phạm hay lãng phí hạt gạo. Bởi thế, trong nhân gian có câu ca dao, “Hạt
gạo, hạt ngọc của Trời. Ai mà phí phạm, thì Trời đánh cho.”
2. Công khó phụ nữ Việt
Người phụ nữ
Việt là người xắn cao tay áo và lấm lem bùn đất nơi đồng lúa để kiếm tìm lương
thực nuôi dưỡng gia đình. Bởi thế, họ biết rằng thật không dễ để kiếm những
chén cơm, đĩa rau và nồi cá kho cho ba bữa cơm của tổ ấm gia đình. Điều này được
phản ảnh qua câu ca dao: “Ai ơi bưng
bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”[8] Do hoàn cảnh thực tế, người
phụ nữ Việt đã sống, trải nghiệm, và được đúc khuôn trong tâm thức cần kiệm,
truyền lại từ bà mẹ của họ. Bởi thế, “sau bữa ăn, người mẹ thu lại thức ăn còn
dư, trong khi nhắc nhở con cái phải thực hành bài học sống tiết kiệm.”[9]
3. Triết lý cần kiệm
Công nghệ hiện
đại đã khiến thực phẩm trong thế giới hiện tại trở nên rất đa dạng, phong phú
và tương đối dễ dàng tìm mua tại các siêu thị. Người vô gia cư ở xã hội Tây
phương hay các quốc gia tiên tiến trên thế giới, nếu muốn, đều có thể nhận được
những bữa ăn miễn phí tại các trung tâm từ thiện trong phố. Tuy nhiên, hai điều
vừa nhắc đến không phải là một thực thể trong quá khứ. Thực phẩm trước thời hậu
hiện đại tại Việt Nam và nhiều nơi thuộc thế giới thứ ba còn rất khan hiếm và đắt
đỏ. Thực tế này khiến phụ nữ Việt Nam phải thận trọng trong việc chi tiêu cho từng
bữa ăn gia đình. Bởi thế, đối với họ, thực phẩm không được phép lãng phí dưới bất
kỳ hoàn cảnh nào. Trong xã hội Việt Nam, “[người] lãng phí thực phẩm không nhận
được cái ánh nhìn thiện cảm” của người chung quanh.[10] Ngoài ra, càng nhiều thực
phẩm được tiêu thụ hợp lý trong ý thức cần kiệm, ngân quỹ của gia đình ngày
càng trở nên phong phú.
C. Tiếp cận Sinh Thái Học trong xã hội Việt Nam
Không chỉ là
“nội tướng” của gia đình, phụ nữ Việt còn kiêm luôn vai trò bảo trợ môi trường
sinh thái. Vai trò bảo trợ của người phụ nữ Việt dễ dàng nhận ra qua ba hiện thực
trong một gia đình truyền thống Việt: vườn rau gia đình, quá trình chế biến thức
ăn dư thừa, và nuôi thú vật trong nhà.
1. Vườn rau gia đình
Rau củ quả là
một trong ba món ăn chính yếu của bữa ăn Việt. Bởi thế, thông thường, sân sau
nhà người Việt không trồng cỏ. Nhưng họ trồng nhiều loại rau củ quả khác nhau.
Hiện thực này đã trở nên phổ biến đến nỗi vườn rau Việt đã bước hẳn vào trong
thế giới âm nhạc Việt Nam. Nhạc sĩ Phạm Duy mở đầu ca khúc “Bà Mẹ Quê” của ông bằng những ca từ:
“Vườn rau xanh ngát một màu. Có đàn gà con nương náu.”[11]
Những loại
rau củ quả thường gặp thấy trong vườn rau Việt là rau muống, khoai lang,
xà-lách, rau mồng tơi và mướp đắng, những loại rau nhiệt đới dễ trồng và thông
dụng trong một bữa ăn hằng ngày của gia đình Việt. Một ô đất trong vườn rau gia
đình thông thường được dành riêng chỉ trồng những loại rau thơm. Thí dụ, rau
tía tô, rau ngò, rau húng quế, rau răm, bụi hành, bụi tỏi, bụi sả, cây ớt,
v.v... Vườn rau Việt đã di dân theo những bước chân Việt Nam và xuất hiện ở những
quốc gia có người Việt sinh sống trên toàn thế giới. Trên ban công của những
căn nhà Việt ở Hoa Kỳ, Hòa Lan, Úc Châu, Philippines, Hong Kong, người ta có thể
bắt gặp nhiều thùng xốp trồng rau các loại và nhiều loại rau thơm khác nhau.
Thí dụ, rau mùng tơi, rau muống, rau xà lách, sả, húng quế, rau răm, ngò gai, bạc
hà, kinh giới, hành lá, lá dứa thơm.
2. Chế biến thức ăn dư thừa
Bữa ăn gia
đình trong xã hội Việt Nam là một lớp học. Nơi đó người mẹ Việt dạy dỗ con cái
đức tính cần kiệm và triết lý thức ăn là món quà do Ông Trời tặng ban. Hơn thế
nữa, hạt gạo là hạt ngọc từ Ông Trời. Bởi thế, bữa ăn gia đình cũng là khoảng
thời gian bà mẹ dạy dỗ đồng thời nhắc nhở con cái thực hành lối sống cần kiệm,
không được quyền lãng phí thức ăn trong bất kỳ hoàn cảnh nào.[12]
Vì thức ăn là
quà tặng của Ông Trời, tất cả thức ăn còn dư sau bữa ăn như cơm, rau, và cá sẽ
được che phủ, rồi đặt tất cả trong chạn bếp hoặc tủ lạnh. Tùy theo tài năng và
sức sáng tạo của “nội tướng,” thức ăn còn dư sẽ được chế biến để trở thành món
ăn mới cho bữa ăn tiếp theo. Ba món thông thường được phụ nữ Việt chế biến từ
thức ăn dư là món cơm, đĩa cơm chiên và tô cháo. Ba món này thông thường được
chuẩn bị cho bữa điểm tâm sáng.
a. Cơm và các món còn dư
Cơm dư từ bữa
tối hôm trước thường được giữ lại cho bữa sáng hôm sau. Những ai làm việc ngoài
cánh đồng rất thích cơm loại này cho bữa điểm tâm, vì người Việt tin rằng cơm
“làm no đầy bao tử.”[13]
Với những người
làm việc tại công sở, người vợ chỉ cần hấp nóng cơm trắng còn dư từ hôm trước. Sau
đó, bà sẽ gói món cơm tái chế cùng với các thức ăn còn dư, cũng đã được tái chế
cho bữa trưa của người chồng. Thức ăn như cá chiên hoặc thịt kho còn dư thông
thường được hâm nóng lại. Với những lá rau thơm tươi thu hoạch từ vườn rau gia
đình, người nội trợ Việt sẽ phủ chúng trên bề mặt của những món tái chế. Cá
chiên hoặc thịt kho tái chế nhờ thế xuất hiện và có hương vị y như một món mới
nấu trong bếp.
b. Cháo
Cháo là món
ăn thông dụng và dễ dàng chế biến. Tất cả cơm trắng còn lại từ bữa ăn trước sẽ
được nấu thành món cháo trắng. Chúng cũng có thể được nấu chung với những món
thức ăn còn dư thành món cháo để dùng cho bữa ăn sáng. Nếu thức ăn còn dư là cá
hay thịt heo, gia đình sẽ được thưởng thức món cháo cá hay cháo thịt heo. Nếu
có sẵn cả hai món trên, thành viên gia đình sẽ được thưởng thức món cháo tổng hợp
cá-thịt.
Hành lá, rau
ngò và tiêu đen rắc trên bề mặt tô cháo là những thứ gia vị cần thiết để tăng
thêm hương vị cho tô cháo tái chế này. Những thứ gia vị này có thể thu hoạch ở ô
đất trồng rau thơm của vườn rau gia đình.
c. Cơm chiên
Nếu thức ăn
còn dư chỉ là cơm trắng, cách thuận tiện nhất để chế biến cơm nguội là chiên
cơm với mỡ hoặc dầu ăn để tạo thành một món mới. Món này gọi là cơm chiên. Món
cơm chế biến này thường được dùng cho bữa cơm sáng. Phụ nữ Việt có thể chiên
cơm nguội với “củ hành ta, củ tỏi hay vài trái trứng.”[14]
Trong khi củ
hành và củ tỏi có thể lấy từ vườn rau gia đình, trứng có thể được thu hoạch từ
chuồng gà trong sân vườn. Trước khi món cơm chiên được dọn ra, tiêu sọ sẽ được
rắc lên trên bề mặt. Thế là một đĩa cơm chiên Việt cho một bữa ăn sáng đã sẵn sàng
cho tất cả mọi thành viên của gia đình.
Trong nhiều
trường hợp, nếu điều kiện không cho phép để dọn một bữa cơm chiên cho bữa ăn sáng,
người phụ nữ Việt sẽ hâm nóng lại cơm trắng và tất cả những thức ăn còn dư lại
từ bữa cơm tối hôm trước. Cả gia đình sẽ lại quây quần với nhau cho một bữa ăn
sáng được tái chế từ bữa ăn tối.
Sau hết, tất
cả những gì còn dư từ món cơm chiên tái chế, hoặc bữa ăn sáng đều sẽ biến thành
thức ăn cho thú vật nuôi trong nhà.
3. Thú nuôi trong nhà
Một đại gia
đình ở xã hội Việt Nam không chỉ bao gồm ba hay bốn thế hệ sống chung với nhau
mà còn có thêm thú nuôi trong nhà nữa. Thú nuôi này thường là gà, heo, chó và
mèo. Gà thường cung cấp thịt ăn và trứng cho gia chủ. Trong một gia đình Việt
truyền thống, gà cũng là nguồn thực phẩm dự trữ dành cho những vị khách bất ngờ
ghé thăm. Heo là nguồn lợi kinh tế giúp gia đình cải thiện điều kiện tài chính.
Chó là những chú bảo vệ trung thành của gia đình, đặc biệt vào buổi tối. Mèo giỏi
bắt chuột trong gian nhà bếp. Vì thế, bốn loại thú nuôi này được xem như những
thành viên trong gia đình Việt.
Trong dòng văn
chương bình dân, ba trong bốn loại thú nuôi này đều xuất hiện trong một bài ca
dao nổi tiếng: “Con Gà Cục Tác Lá Chanh.”[15] Thật vậy, khi đến thăm một
gia đình Việt đặc biệt ở vùng nông thôn, khách sẽ thường bắt gặp một vài chú
chó nằm phía trước sân nhà. Vài con mèo nằm canh chừng chuột trong nhà bếp. Vài
con heo nằm ngủ ở góc sân vườn. Và vài chú gà đang đào bới kiếm thức ăn trong
khu vườn rau và sân sau của gia đình.
Một trong những
nguồn thực phẩm chính để nuôi sống bốn loại thú nuôi này là thức ăn dư thừa từ
những bữa cơm gia đình. Thông thường trong khi chuẩn bị bữa ăn, người vợ sẽ
không bỏ đi bất cứ phần nào của cá, thịt, và rau củ quả. Nước vo gạo, vây cá,
miếng mỡ thừa và phần rau bị héo được giữ lại trong nồi nấu cám heo. Tương tự
như vậy, tất cả thức ăn thừa còn sót lại trong bồn rửa chén bát sẽ được chắt lọc
lại, sau cùng bỏ vào nồi nấu cám. Thức ăn rơi vãi trên mặt đất từ bàn ăn được
gom lại làm thức ăn cho heo, chó, mèo, và gà.
Nhìn chung, với
sự khéo léo tính toán của người “nội tướng,” phụ nữ Việt không tạo cơ hội hay
cho phép các thành viên trong gia đình lãng phí thức ăn trong bất cứ trường hợp
nào. Đây chính là lý do đã biến người phụ nữ Việt thành “người bảo trợ môi trường
sinh thái” trong xã hội Việt Nam truyền thống.
D. Sinh Thái Học Thời Hậu Hiện Đại
1. Thời Hậu
Hiện Đại
Bối cảnh môi trường là yếu tố định hình một nền văn hóa. Nói một cách
khác, những chất liệu tạo nên một môi trường cũng chính là những chất liệu góp
phần tạo nên một nền văn hóa. Bối cảnh văn hóa nông nghiệp lúa nước định hình nền
văn hóa ăn cơm của xã hội Việt. Tương tự như thế, bối cảnh văn hóa lúa mì định
hình một nền văn hóa lấy bánh mì làm lương thực chủ đạo của xã hội Do Thái. Bối
cảnh vùng cao nguyên Papua New Guinea (PNG) đã tạo nên những vườn rau của văn hóa
ăn khoai lang, lương thực chính trong một bữa ăn vùng cao nguyên PNG.
Bởi những mối liên hệ mật thiết giữa bối cảnh và văn hóa như vừa sơ lược
trình bày, một khi bối cảnh môi trường thay đổi, những chi tiết của một nền văn
hóa cũng thay đổi theo.
Chịu ảnh hưởng bởi vòng quay từ hiện đại sang thời kỳ hậu hiện đại, bối cảnh
xã hội Việt Nam cũng đã và đang thay đổi, đặc biệt bắt đầu từ những ngày của cuối
thập niên 90, khi Việt Nam chuyển sang mô hình kinh tế thị trường. Nhiều thành
phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội và vùng phụ cận ngày hôm nay đều đã trở thành những
trung tâm kỹ nghệ lớn của Việt Nam. Nơi đây, những tòa nhà chung cư, cao ốc nhiều
tầng giờ này xuất hiện như nấm tại vùng ven đô. Hơn thế nữa, rất nhiều tỉnh thành
của Việt Nam cũng tuần tự được đô thị hóa. Nhà tranh vách lá của thời tiền kinh
tế thị trường dần dần được thay thế bằng những tòa nhà hiện đại kín cổng cao tường.
Sinh hoạt kinh tế của Việt Nam hiện nay chính là một nền kinh tế thị trường.
Đời sống kinh tế thị trường thay đổi ngân sách chi thu của một gia đình. Bởi thế,
nguồn chi thu của một gia đình không chỉ còn phụ thuộc vào một mình người chồng.
Nhưng ngay cả người vợ cũng bắt đầu rời bỏ khuôn viên gia đình cho những công
việc hãng xưởng. Bởi thế, phụ nữ Việt thời hậu hiện đại, mặc dù vẫn giữ chức vụ
nội tướng, nhưng không còn toàn thời gian như xưa.
Việt Nam từ những ngày phát triển xã hội theo mô hình kinh tế thị trường,
lương thực hằng ngày trở nên dồi dào và đa dạng tại những sạp hàng ngoài chợ hoặc
trong thương xá. Hồi xưa, người Việt có thói quen đi chợ hằng ngày để tìm mua
thực phẩm tươi sống. Thời hậu hiện đại của nền kinh tế thị trường cũng thay đổi
thói quen đi chợ hằng ngày của phụ nữ Việt. Phụ nữ nhiều nơi không còn xách giỏ
đi chợ mỗi buổi sáng nữa. Nhưng họ lái xe máy tới cửa hàng lương thực để mua sắm
thức ăn cho cả gia đình vào ngày nghỉ hoặc mỗi cuối tuần cho nguyên một tuần lễ.
Đời sống kinh tế phát triển dẫn đến nhiều thay đổi về gia dụng. Một trong
những nổi bật về gia dụng có liên quan trực tiếp đến thức ăn, đó chính là tủ lạnh.
Gia đình nào giờ nay cũng gần như đều sở hữu một hoặc hai ba tủ lạnh để bảo quản
thịt, cá, rau mua ở chợ, và thức ăn dư thừa từ bữa ăn trong cùng ngày, hoặc qua
đêm.
Bốn chi tiết vừa liệt kê và phân tích ngắn gọn ở trên, cùng với nhiều chi
tiết khác nữa trong bối cảnh xã hội Việt Nam ngày hôm nay, đã thay đổi bộ mặt của
những sinh hoạt Sinh Thái truyền thống của người Việt Nam.
2. Những thay đổi
Trong những ngôi nhà hiện đại kín cổng cao tường, tứ
gia súc quen thuộc và truyền thống không còn xuất hiện trong khuôn viên của gia
đình nữa. Chó và mèo có thể vẫn còn hiện diện, nhưng gà và heo thì hoàn toàn biến
mất. Ngay cả những gia đình có điều kiện nuôi chó và mèo, thông thường khả năng
tài chánh của chủ nhân cũng khá giả. Bởi thế, họ nuôi chó và mèo cũng bởi đây là
những chú chó hoặc mèo kiểng. Chủ nhân cũng thông thường mua những loại thức ăn
chỉ dành riêng cho những chú thú cưng. Khi gà và heo không còn xuất hiện trong
gia đình, chó và mèo trở thành thú kiểng, thức ăn nếu còn dư dễ dàng biến thành
vật liệu phế thải, nằm yên trong thùng rác.
Đời sống kinh tế thị trường phát triển nhanh chóng và đời sống hậu hiện đại
dẫn đến hiện tượng lương thực phong phú và khả năng tài chánh cao ổn định của một
gia đình. Bởi thế, mặc dù vẫn là nội tướng gia đình, người vợ không còn nhiều băn
khoăn cho những dự tính sử dụng và tái chế thức ăn dư thừa trong cùng một ngày
như xưa nữa. Những buối tối của một gia đình Việt của thời hậu hiện đại thông
thường là “xả stress,” bằng những chương trình TV hấp dẫn chiếu trên nhiều kênh
đài. Thức ăn dư thừa trong tủ lạnh sau cùng cũng thường được quẳng bỏ thay vì tái
chế.
3. Triết lý sinh thái
Mặc dù các thực hành sinh thái truyền thống tại Việt
Nam đã trải qua nhiều biến đổi dưới tác động của thời hậu hiện đại, phụ nữ Việt
Nam vẫn tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong việc truyền đạt và thích nghi các
giá trị sinh thái. Vị trí “nội tướng” trong gia đình của phụ nữ Việt Nam không
hề bị suy giảm. Ngược lại, vai trò ấy đã phát triển để đối mặt với những thách
thức tạo ra bởi môi trường hiện đại. Trong bối cảnh này, phụ nữ Việt không chỉ
là người gìn giữ trí tuệ tổ tiên mà còn là những tác nhân tích cực định hình
hành vi sống có trách nhiệm với môi trường trong gia đình và ngoài xã hội.
Trong phạm vi gia đình, phụ nữ vẫn là những người giáo
dục chủ chốt, gieo mầm ý thức sinh thái nơi con trẻ. Một giá trị văn hóa ăn sâu
vào tiềm thức là sự kính trọng đối với thực phẩm, đặc biệt là cơm gạo, món quà
thiêng liêng từ Ông Trời. Việc
dạy con biết quý từng hạt gạo là một hành vi đạo đức, góp phần nuôi dưỡng triết
lý sống tiết kiệm, biết ơn và hòa hợp với thiên nhiên. Những giá trị này phù hợp
với thế giới quan sinh thái lâu đời của người Việt, vốn nhấn mạnh đến sự cân bằng,
đủ đầy và trách nhiệm trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên.
Một trong những nguyên tắc sinh thái thiết thực và bền
vững nhất được phụ nữ Việt truyền dạy nằm trong câu châm ngôn: “Nấu vừa đủ, ăn đủ no.” Nguyên tắc này
phản ảnh sự cẩn trọng về môi trường lẫn truyền thống văn hóa.
“Nấu vừa đủ” nghĩa là chuẩn bị bữa ăn với lượng vừa phải,
không dư thừa, nhằm cung cấp đầy đủ dinh dưỡng mà vẫn không tạo ra lãng phí.
Đây là một cách tiếp cận có chủ đích, có chừng mực trong tiêu dùng, phù hợp với
mục tiêu phát triển bền vững về sinh thái. Khi có thức ăn thừa, chúng được bảo
quản và tái sử dụng một cách sáng tạo, thể hiện mô hình tuần hoàn trong sử dụng
tài nguyên, vốn có trước khi phong trào zero waste (không rác thải) hiện
đại xuất hiện.
“Ăn đủ no” cũng mang tính giáo dục sâu sắc, nhất là
trong những hoàn cảnh ăn uống công cộng như nhà hàng hay tiệc buffet. Tại đó,
phụ nữ tiếp tục vai trò giáo dục bằng cách hướng dẫn các thành viên trong gia
đình, đặc biệt là con trẻ, chỉ lấy phần thức ăn cần và tránh thói quen tiêu
dùng dư thừa. Qua đó, họ cổ vũ lối sống ăn uống có ý thức, nuôi dưỡng tinh thần
trách nhiệm sinh thái không chỉ trong gia đình mà ngay cả nơi công cộng.
Đáng chú ý, ảnh hưởng của phụ nữ Việt không chỉ giới hạn
trong không gian gia đình. Ngày càng nhiều phụ nữ tham gia vào các sáng kiến
sinh thái cộng đồng như khuyến khích sử dụng nông sản địa phương, vận động giảm
thiểu sử dụng nhựa, tổ chức phân loại rác, và dẫn dắt giáo dục môi trường tại
trường học và giáo xứ. Vai trò lãnh đạo của họ chứng minh rằng các giá trị sinh
thái gia đình không phải là bất biến, mà đang được chuyển hóa thành những hành
động cộng đồng có ý nghĩa.
Hơn nữa, phụ nữ Việt có đóng góp to lớn trong việc bảo
tồn và chuyển giao sinh thái liên thế hệ. Bằng cách truyền lại thói quen sống bền
vững và đạo đức môi trường cho con cái, họ bảo đảm rằng những giá trị này sẽ được
tiếp nối trong đời sống nghề nghiệp, học đường và xã hội dân sự của thế hệ
tương lai.
Về mặt văn hóa, hình ảnh “bà mẹ tần tảo” tiêu biểu cho tinh thần sống sinh thái. Từ bao đời
nay, bà mẹ Việt Nam là người dậy sớm ra đồng, quản lý tài nguyên gia đình một
cách khôn ngoan, và sống thuận theo nhịp điệu của tự nhiên. Dù bắt nguồn từ quá
khứ, mẫu hình này vẫn là tấm gương phù hợp để ứng phó với các cuộc khủng hoảng
môi trường hiện nay.
Thêm vào đó, những đóng góp của phụ nữ Việt Nam còn
vang vọng vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Các thực hành sinh thái của họ phù
hợp với những khuôn khổ phát triển bền vững toàn cầu, bao gồm các Mục tiêu Phát
triển Bền vững của Liên Hợp Quốc (Sustainable Development Goals – SDGs).
Đặc biệt, vai trò của họ trong việc thúc đẩy tiêu dùng có trách nhiệm (SDG 12),
hành động vì khí hậu (SDG 13) và hỗ trợ bình đẳng giới (SDG 5) cho thấy rằng
các thực hành văn hóa địa phương có thể góp phần tích cực vào các mục tiêu sinh
thái toàn cầu.
Bất chấp áp lực từ đô thị hóa, sự thay đổi vai trò giới
và những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, phụ nữ Việt vẫn kiên cường tích hợp
trí tuệ sinh thái truyền thống với thực tế đương đại. Chính sự linh hoạt và khả
năng thích nghi này giúp họ kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống
và đổi mới, làm nên những đóng góp không thể thay thế cho tương lai sinh thái của
Việt Nam.
Tài Liệu Tham
Khảo
Edwards, Denis.
“‘Sublime Communion’: The Theology of the Natural World in Laudato Si’.” Theological
Studies 77 (2016): 377-391.
Javier, Edgar G.
“God’s Dream for Humanity and Creation: One Earth – One People.” Religious Life Asia 10, no. 1
(January-March 2008): 5-24.
Nguyen, Michael
Q. Missiological Resonances in the
Vietnamese Culture of the Multiplication of the Loaves in John 6 (Manila,
Logos Publications, 2021), 253.
Nguyễn Trung Tây.
Chúa, Cơm Hằng Sống [God, the Steamed
Rice of Life]. Epworth, Iowa: Divine Word College, 2005.
Paredes, José
R.G. “Eco-Theology: Only Wholeness is Sacred: Towards a New Theological
Vision.” Religious Life Asia 10, no.
1 (January-March 2008): 54-75.
Phạm Duy, Kỷ Vật Chúng Ta [Our Memories]. Sài Gòn:
Nhà sách Khai Trí, 1971.
Tauchners,
Christian. “Mission and Ecology.” In Mission
beyond Ad Gentes, Jacob Kavunkal and Christian Tauchner, eds. Siegburg:
Franz Schmitt Verlag, 2016.
United States
Conference of Catholic Bishops. “A Statement of the US Catholic Bishops: Global
Climate Change: A Plea for Dialogue Prudence and the Common Good.” Washington,
D.C., 2001.
Vu Hong Lien. Rice and Baguette: A History of Food in
Vietnam. London: Reaktion Books, 2016.
[1] Xem Denis Edwards, “‘Sublime
Communion’: The Theology of the Natural World in Laudato Si’,” Theological
Studies 77 (2016): 377-391.
[2] Christian Tauchners, “Mission and
Ecology,” trong Jacob Kavunkal and Christian Tauchner, eds., Mission beyond Ad Gentes (Siegburg:
Franz Schmitt Verlag, 2016), 180.
[3] Xem United States Conference of
Catholic Bishops, “A Statement of the US Catholic Bishops: Global Climate
Change: A Plea for Dialogue Prudence and the Common Good” (Washington, D.C.,
2001), 5-6, 19-23.
[4] José R. G. Paredes, “Eco-Theology:
Only Wholeness is Sacred: Towards a New Theological Vision,” Religious Life Asia 10, no. 1
(January-March 2008): 60.
[5] Edgar G. Javier, “God’s Dream for
Humanity and Creation: One Earth – One People,” Religious Life Asia 10, no. 1 (January-March 2008): 15.
[6] Nguyễn Trung Tây, Chúa, Cơm Hằng Sống (Epworth, Iowa:
Divine Word College, 2005), 126-127.
[7] Michael Q. Nguyen, Missiological Resonances in the Vietnamese
Culture of the Multiplication of the Loaves in John 6 (Manila, Logos
Publications, 2021), 253.
[8] Ibid., 252.
[9] Ibid., 255.
[10] Vu Hong Lien, Rice and Baguette: A History of Food in Vietnam (London: Reaktion
Books, 2016), 164.
[11] Phạm Duy, Kỷ Vật Chúng Ta (Sài Gòn: Nhà sách Khai Trí, 1971), 36.
[12] Nguyen, “Missiological Resonances in
the Vietnamese Culture of the Multiplication of the Loaves in John 6,” 255.
[13] Vu Hong Lien, Rice and Baguette, 169.
[14] Ibid.
[15] Ibid., 198.
Comments
Post a Comment