Đừng Đánh Con Đau!
...Trước khi đưa nó ra thuyền lớn, thím Tám bắt thằng Khôi phải gật đầu hứa với thím,
—
Qua được tới Mỹ rồi, con không được uống rượu, không được hút thuốc, nhưng phải
ôm cặp táp tới trường đi học cho bằng với người ta. Khôi! Con có nghe không? Con
có hứa với má hay không hả Khôi?
Nghe
lời thím Tám nói tới đây, thằng Khôi chỉ còn biết gật đầu. Hai vòng tay ôm chầm
lấy thím Tám, nó khóc mùi mẫn,
—
Má ơi! Má cho tui ở nhà với má đi! Tui không đi đâu hết. Má đừng có đuổi tui đi
nghen má. Ở nhà với má, trưa trưa tui ra mương xúc cá bống về nuôi má...
Nghe
lời thằng Khôi năn nỉ, rồi lại nhìn thấy nước mắt đầm đìa trên khuôn mặt của
nó, thím Tám cũng muốn bật tung những hàng nước mắt khóc theo. Mười bốn năm nay
thím Tám nuôi thằng Khôi. Một ngày không rời xa, một đêm không vắng mặt. Nhưng
đã tới giờ, người thanh niên do bác Năm Lành sai tới bồn chồn đứng đợi trong
căn phòng ngọn đèn hột vịt cháy tù mù. Nhận ra điệu bộ nóng nảy của người đưa
đường, thím Tám đành rứt ruột đẩy thằng Khôi ra. Chỉ đợi có thế, anh chàng lẹ
làng nắm tay thằng Khôi kéo tới. Bị lôi đi sền sền trên nền đất, thằng Khôi vẫn
cố gắng quay đầu ngó lui. Qua ngọn đèn hột vịt le lói chiếu qua vách phên tre,
nó nhận ra má nó vẫn đứng im lìm ngay trên sân nhà nhìn theo. Người thanh niên
vẫn kéo thằng Khôi bước tới. Qua khỏi bụi tre, thằng Khôi quay đầu nhìn lại một
lần nữa. Lần này nó nhận ra bóng của thím Tám đã khuất dạng vào trong màn đêm dầy
đặc. Thằng Khôi bật khóc nức nở! Má ơi, má đừng có đuổi tui đi. Má ơi!
Thế
đó, vậy mà đã trôi qua vèo vèo mấy chục năm rồi…
…
Chiều
nay, nghe thủng lời càm ràm của thím Tám về vụ con nuôi con ruột, thằng Khôi cất
tiếng,
—
Thì tui tưởng là hồi đó má lượm được tui, rồi má mang về nuôi.
Thím
Tám lắc đầu quầy quậy,
—
Chuyện lâu rồi. Nhưng thôi, bữa nay má kể cho mày nghe. Má không lượm được mày!
oOo
Đêm
hôm đó trời tối khuya, đi ngang qua cửa chùa, mặc dù say khướt, nhưng chú Tám vẫn
nhận ra tiếng khóc lảnh lót của con nít vang vang trong đêm tối tuồng như tiếng
ma kêu. Chú Tám cúi xuống, ôm bọc vải đưa lên vai khập khiễng bước đi. Về tới
nhà, chú Tám quẳng gói vải xuống cái chõng tre. Thím Tám đang ngồi bên cái bàn
gỗ dưới ánh đèn mập mờ khi tỏ khi lu của cây đèn hột vịt thắp bằng dầu lửa. Thấy
chồng bước vô nhà, thím Tám ngạc nhiên hỏi liền,
—
Ủa! Tía nó đi đâu mà xách vác cái bọc chi mang về nhà vậy?
Chú
Tám thở mạnh, hơi rượu nồng nặc,
—
Chiều nay, đi ngang qua nhà anh Sáu Cam. Tui gặp ảnh đang ngồi nhậu rượu đế một
mình. Thấy tui đi ngang, ảnh hứng chí vẫy gọi tui vô ngồi lai rai ba sợi với ảnh.
Mà tui thề với má nó là tui đã nói rõ ràng là ở nhà con vợ tui nó đang đợi cơm
chiều. Nhưng anh Sáu ảnh không cho đi. Ảnh nói đàn ông con trai là phải sông nước
giang hồ, trên trăng dưới nước, tứ hải giai huynh đệ. Ản nói làm người trượng
phu không được tối ngày rúc rúc ở trong xó bếp với vợ với con, mất mặt nam nhi
chi chí. Nể tình quá, tui đành ngồi xuống với ảnh. Thôi thì hết cạn chén đầy, lại
đầy chén cạn, vừa vơi chén nhỏ, lại tràn chén to. Hứng nữa, anh Sáu lại hú gọi
thêm mấy ông hàng xóm có máu tài tử sang bên nhà ảnh. Cả đám hùa vào, vặn dây
đàn, ca vọng cổ. Cứ thế! Xoay đi xoay lại cũng đã nửa đêm về sáng. Tui biết là
đã khuya. Má nó đang đợi ở nhà, nên tui quyết định đứng dậy đi về. Nào ngờ khi
đi ngang qua trước cửa chùa, tự nhiên tai tui nghe thấy tiếng con nít khóc. Rồi
đom đóm lập lòe bay ra. Tui đoán là chắc có ma quỷ trốn rúc hay là có trộm cướp
rình rập đâu đây. Tui cúi xuống, tính lượm cục đá hay kiếm cây gậy phòng thân. Ai
dè tui lại nhìn thấy cái gói màu trăng trắng nằm sát ngay trước cửa chùa. Tui lượm
nó lên.
Chú
Tám chỉ vào bọc vải,
—
Đó, nó đó! Má nó gỡ cái bọc ra coi có cái chi ở trỏng vậy?
Thím
Tám bước tới nhìn, rồi ngồi xuống cái chõng tre. Trong luồng sáng tù mù mờ đục
của căn phòng, thím Tám hét to khi nhận ra thằng bé nằm gọn lỏn bên trong tờ giấy
báo, kiến đen đang bò chung quanh người của thằng nhỏ. Chú Tám ngẩng lên, hất
hàm hỏi,
—
Ma cỏ chi mà má nó hét lên tuồng như gặp kiến lửa bọ hung vậy?
Thím
Tám nhấc thằng Khôi lên,
—
Ông ơi! Thằng nhỏ! Có thằng nhỏ nằm trong bọc giấy...
Chú
Tám khì mũi, lắc lắc đầu, nói tỉnh bơ như không có chuyện chi,
—
Tưởng là ma! Nó mà là ma nữ, tui bắt nó nấu cơm rửa chén cho mình. Còn gặp con
ma da, tui gửi nó lên ông Hương Hào cho ổng đóng cọc, quật cho mấy hèo ngay giữa
sân đình.
Để
mặc chồng mình ngồi nói lảm nhảm một mình, thím Tám bế thằng nhỏ lên. Thím lấy
tay gạt hết đàn kiến đen đang bám quanh người thằng nhỏ. Cời cời than hồng dưới
bếp cho cháy sáng đỏ, thím Tám nấu nước ấm tắm cho thằng nhỏ. Sau đó, thím vội
vàng chạy sang nhà mợ Tư Kiểng, đập cửa xin sữa Ông Thọ quậy cho thằng nhỏ uống.
Sáng
hôm sau, khi tỉnh hơi rượu, chú Tám mới bàn với vợ nên gửi thằng nhỏ lượm được
tối hôm qua tới Viện Dục Anh,
—
Không phải là tui hẹp hòi chi với món quà ông Trời ổng thương, ổng tặng cho
mình. Nhưng nhà mình cũng nghèo quá. Má nó với tui bữa cơm hẩm bữa cháo trắng,
bữa sắn luộc bữa khoai lùi, rồi lấy đâu ra sữa cho thằng nhỏ nó bú? Không lẽ
mình cứ sáng sáng nhấc chân chạy te te qua nhà mợ Tư mở miệng xin sữa nuôi nó?
Ngày một ngày hai thì không sao, chứ cứ tiếp tục tuần này qua tuần kia, tui
cũng nhột nhạt cả người, mà má nó cũng quê mặt với mợ Tư. Mặc dù là giấy rách,
nhưng mình vẫn phải giữ lấy lề. Đói nghèo thì mặc, nhưng không để cho người
trong làng trong xóm khinh tuồng, rồi họ lên mặt bỉ thử với hai vợ chồng mình.
Liếc
nhìn thằng nhỏ mới lượm được hôm qua đang ngủ no nê trên cái chõng tre, thím
Tám nói,
—
Mình bàn cũng phải lẽ, chí tình. Nhưng tối qua, lúc mình ngủ rồi, em cũng suy
nghĩ lung lắm. Em biết hai vợ chồng mình cũng nghèo túng, bữa đói bữa no, trưa
ăn cơm trộn bắp, tối ngồi gặm sắn luộc. Nhưng cái này chắc là tại ông Trời ổng biết
hai vợ chồng mình hiếm muộn. Cho nên ổng thương khiến mình đêm khuya đi ngang
qua cửa chùa…
Thấy
vợ thiết tha, muốn giữ thằng nhỏ, chú Tám không nói chi nữa. Mấy ngày sau chú
Tám mang thằng nhỏ lên nhà hộ sinh, đặt tên cho nó là Khôi. Chú Tám Hiếu nói với
vợ,
—
Mình tên trong sổ bộ là Kim, đặt tên cho nó là Khôi. Kim Khôi đi với nhau thì
chắc chắn là phải đẹp không thua chi tuồng Phạm Lãi Tây Thi rồi.
Ngày
tháng trôi qua, thằng Khôi dần dần lớn lên dưới mái hiên của căn nhà tranh lụp
xụp như chuồng gà của hai vợ chồng chú Tám Hiếu. Người trong thôn ai cũng biết
chuyện chú Tám đêm khuya say xỉn đi ngang cửa chùa. Lượm được bọc vải, chú vác
lên vai, mang về nhà trị tội, bởi chú tưởng là con ma nữ hiện ra trêu chọc!
oOo
—
Ủa, má! Nói vậy là hồi xưa tía hành nghề thầy pháp hả má?
Thím
Tám lắc đầu,
—
Không! Tía con thì không. Nhưng bên nội nhà con là mấy đời rồi. Bên đó họ chuyên
vẽ bùa núi Tà Lơn kiếm sống. Nội sanh đặng tám người con. Đi trước liền sáu người
con gái. Tía con thứ tám, người trong làng gọi là Tám Hiếu. Chú Chín Cơ là út.
Nhưng tía con, ổng không chịu học nghề gia truyền. Ổng nói, “Nghề này không có
thọ! Nghề chi mà toàn là bắt chuyện với người cõi âm, rồi tinh là vẽ bùa trấn ểm!
Đụng chạm tới ai chứ đụng chạm tới người đằng dưới là không có tui rồi nghen”.
Không chịu học nghề gia truyền, tía con đi theo bạn bè thương hồ buôn bán lang
thang trên sông rạch. Khoảng mấy năm sau, ổng mới chịu dừng bước giang hồ, quay
lại về làng. Ổng cưới má, rồi mần ruộng cày thuê cho ông Hương Hào. Ai cần thì ổng
lại vác cuốc xẻng tới đắp đê làm bờ giữ nước cho ruộng lúa.
Thím
Tám xuống giọng, điệu bộ thì thào,
—
Mà lạ lắm! Tía mày thì không thích đụng chạm tới cõi âm. Nhưng ổng đi tới đâu,
quỷ ma dạt ra tới đó. Đêm khuya thanh vắng, đụng phải trai làng, ma nữ hiện ra
nguyên hình treo toòng teng trên cành đa. Con ma buông xõa tóc dài, ôm con ru hời,
có khi còn buông lời trêu ghẹo người qua đường. Ngày hôm sau, tự nhiên người đó
ngớ ngẩn tợ như người mắc bệnh đằng dưới. Người nhà hú ba hồn chín vía, giựt giựt
tóc mai, cạy miệng đổ rượu, mấy ngày vẫn chưa hoàn hồn. Thầy pháp tới nhà dựng
bàn hương, vẽ bùa. Con ma nữ hiện ra ngay giữa bàn hương, há miệng cười sằng sặc,
rồi đưa chân đạp đổ nhang đèn. Vậy đó! Tía con, tối tối, sau tiệc rượu với bạn
bè, ổng băng ngang qua cây đa chỗ có con ma nữ. Thấy tía con, con ma nữ nín
thinh. Không cười sằng sặc! Không cất lời trêu ghẹo! Ngay tới chỗ có cái miếu
thờ cây đa, tía mày nhìn lên. Con ma nữ tự nhiên buông tay rơi thẳng xuống đất,
óc bể teng beng văng ra từng miểng. Nửa đêm về sáng, bà con trong làng nghe thấy
tiếng sét đánh thẳng xuống cây đa. Sáng hôm sau, người trong làng thấy miếu thờ
cây đa nứt đôi, úp mặt xuống đất. Đom đóm to gần bằng đầu ngón tay út nhìn y
như ruồi trâu nằm chết la liệt chung quanh gốc đa, gom lại được cả rổ. Từ đó,
không ai trong làng bị ma trêu ngay chỗ ngã ba Cây Đa nữa.
Thằng
Khôi nổi da gà, rợn người lắng nghe má nó kể chuyện về tía nó. Thím Tám nói,
—
Có một lần khác, khi khổng khi không có cái xác phụ nữ từ trên nguồn theo dòng
nước tấp vô trong xóm. Người trong làng ai cũng ngán, cũng sợ bà chổng mang
theo bịnh thời khí giết hại người trong thôn. Bởi cũng có một lần, thời đó má
còn nhỏ. Lần đó từ trên nguồn đổ xuống một ông chổng. Hương chức trong làng họp
nhau lại nói thôi nghĩa tử cũng là nghĩa tận. Cho nên họ sai mấy người thanh
niên lực điền hè nhau lại, kéo ông chổng lên. Làng xuất công quỹ đóng hòm chôn
cất ông chổng cho đàng hoàng tử tế. Ai dè, ông chổng vừa mới mồ yên mả đẹp ở
nghĩa địa đầu làng, mấy người thanh niên lực điền vác ông chổng lên bờ bữa hổm
đang mạnh sân sẩn bỗng té lăn ra như người mắc bệnh thời khí, thượng thổ hạ tả,
tắt thở cấp kỳ. Ngày hôm sau, tới phiên vợ con của họ cũng bắt đầu phát chứng.
Hương chức trong làng vội vàng chạy lên báo trên huyện. Y tế huyện lái xe ô tô
xuống liền. Xe cứu thương chớp đèn hú còi inh ỏi. Ngay lập tức họ ra lệnh nội bất
xuất, ngoại bất nhập, mọi hàng quán ở trong thôn phải đóng cửa dẹp tiệm. Người
mới bộc phát triệu chứng được chở lên bệnh viện trên tỉnh cấp kỳ. Hên, lần đó
chỉ mới chết mấy người thanh niên, chứ vợ con của họ cuối cùng được cứu sống,
không chết ai.
Thím
Tám dừng lại, đưa vào miệng miếng trầu, bóp bép nhai, rồi tiếp tục câu chuyện
ông chổng,
—
Rút kinh nghiệm lần này, thấy bà chổng xuất hiện ngay bờ sông, mấy ông hương tề
trong làng họp nhau lại. Họ tính làm mâm cơm để trên bè cúng bà chổng, rồi lấy
sào đẩy bả và bè ra xa cho trôi xuôi theo con nước. Ta nói ngay lúc đó, tía con
có công chuyện đi ngang khúc sông. Thấy tía con, cái xác con gái tự nhiên
ngưng, thôi không bập bềnh nữa. Xác nữ lại còn nhếch mép cười với tía con, tuồng
như e thẹn. Được đâu mấy phút, xác nữ tự động tách ra khỏi đống lục bình, chầm
chậm trôi ra giữa sông, biến mất theo dòng nước.
Thằng
Khôi thắc mắc,
—
Sao kỳ vậy má? Bộ tía có bùa trảm yêu hả má?
Thím
Tám lắc đầu,
—
Đã nói là tía con không muốn học nghề của ông nội mà. Làm sao mà ổng biết vẽ
bùa trảm yêu cho đặng. May ra có ông nội của con thì biết...
Comments
Post a Comment